Đăng nhập

Cổng TTĐT Xã Đông Xuyên - Huyện Ninh Giang

23/4/2023  |  English  |  中文

Di tích, danh thắng - Xã Đông Xuyên

I - TÊN GỌI:

                                     Tên thường gọi:  Chùa Đông Cao

      Tên tự :                     Sùng Ân tự

Nhân dân địa phương lấy tên làng đặt cho tên chùa. Đầu thế kỷ 19 Đông Cao là một xã thuộc tổng Đông Cao, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Tổng Đông Cao lúc đó có 15 xã, đó là: Đông Cao, Trịnh Xuyên, Đan Bối, Dậu Trì, Đoan Xuyên, Đa Nghi, An Cư, Bối Giang, Đồng Lại, Đan Cầu, Do Nghĩa, Đạo Lương, Bối Thị và Cổ Lôi. Sau này do sự thay đổi địa giới hành chính, ngày nay Đông Cao là một trong 2 thôn thuộc xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang, tinh Hải Dương.

II - ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ DI TÍCH - ĐƯỜNG ĐI ĐẾN:

a) Địa điểm phân bố di tích:

Chùa Đông Cao dược xây dựng trên một khu đất bằng phẳng, vào vị trí đẹp ở đầu làng, có thế đất rồng chầu hổ phục. Trước mặt là đường làng, bên trái chùa có một giếng đất nhỏ. Tương truyền đó là mắt rồng. Xưa trong làng có một ngôi đình và một ngôi miếu thờ Thành hoàng. Như vậy chùa Đông Cao nằm trong quần thể di tích đình, chùa, miếu của làng, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng lâu đời của người dân nơi đây.

Đông Xuyên là xã nằm ở phía Đông Bắc huyện Ninh Giang, xã có 2 thôn là Đông Cao, Xuyên Hử với vị trí như sau:

  • Phía bắc giáp xã Tân Phong
  • Phía nam giáp xã Ninh Hải
  • Phía Đông giáp xã Tân Hương
  • Phía Tây giáp xã Vạn Phúc

    Diện tích toàn xã 980 mẫu, dân số: 5.531 người (2023) gồm 1.597 hộ dân là một xã thuần nông. Nghề chính là trồng trọt và chân nuôi, ngoài ra không có nghề phụ. Sông Cửu An đi qua địa phận Đông Xuyên tạo cho xã có vị trí giao thông thủy bộ thuận lợi. Qua các thời kỳ lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân ngày một phát triển, dần đi vào thế ổn định về kinh tế, văn hoá, chính trị...

    b) Đường đi đến:

    Từ thành phố Hải Dương theo đường 17 (Hải Dương - Ninh Giang) đến Cầu Ràm đi khoảng 500m rẽ tay phải, qua xã Tân Hương đến xã Đông Xuyên. Chùa ở thôn Đông Cao. Từ thành phố Hải Dương đến di tích khoảng 26km, thuận tiện với các phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp...

III – SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ:

Nghiên cứu di tích trên các phương diện lịch sử, thư tịch và truyền thuyết ở địa phương thì chùa Đông Cao được xây dựng từ thời Lý. Vào thời Lê tương tuyền khi nhà Mạc thất thế có 1 hoàng tử và 1 công chúa Mạc (không rõ tên) chạy về Đông Cao, đã dùng chùa để thờ Phật và sống ẩn dật. Sau này công chúa đã mất tại đây cho nên ở đây vẫn còn một khu mộ mà nhân dân gọi là Đống Mả Chúa. Cho nên từ xưa đến nay vẫn là nơi thờ phật phục vụ tự do tín ngưỡng của nhân dân. Theo nội dung ghi trên bia chùa còn thờ "Huyền Quang" vị sư tổ thứ ba của phái thiền Trúc Lâm Việt Nam do Trần Nhân Tông sáng lập.

Lịch sử của sư Huyền Quang như sau:

Huyền Quang tên thật là Lý Đạo Tái, thuộc dòng dõi quan lại nhà Lý, quê ở xã Vạn Tự, huyện Gia Định, nay thuộc Gia Lương - Hà Bắc. Cha là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, được nhà Trần bổ nhiệm làm quan nhưng không nhận, thích sống cảnh điền viên, xem sách hay, truyện lạ. Bà vợ năm 30 tuổi sinh hạ Lý Đạo Tái, có tướng mạo kỳ dị, nhưng có chí hưóng và học rất thông minh. Năm 19 tuổi thi hương, năm sau thi hội, đỗ đầu (tiến sĩ). Lúc còn niên thiếu cha mẹ có dạm hỏi vợ nơi này nơi khác cho Lý Đạo Tái nhưng đều bị từ chối. Nhưng khi thi đỗ thì các nhà quyền quý nhắn gọi gả con gái. Cả vua Trần cũng muốn gả công chúa Liễu cho, nhưng ông khước từ. Lý Đạo Tái làm việc ở Viện Hàn lâm, soạn thảo văn thư, giao tiếp với sứ Tàu, viện dẫn kinh nghĩa, đối đáp trôi chảy rất được kính phục. Một hôm ông theo vua Trần Nhân Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm (gặp lúc Quốc sư Pháp Loa đang thuyết pháp, Lý Đạo Tái rất tâm đắc với đạo Phật, ông dâng biểu từ quan và xin xuất gia tu hành, được vua thuận tình. Năm 1305 Lý Đạo Tái tu ở chùa Lễ Vĩnh, làm môn đệ cùa Bão Phác, một đệ tử giỏi của Pháp Loa, rồi trụ trì ở chùa Vân Yên (còn gọi là Hoa Yên) trên núi Yên Tử, giáo lý của ông uyên bác, sâu rộng, nên các tăng ni theo học rất đông. Pháp Loa đặt pháp hiệu cho ông là Huyền Quang.

Vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang thường đi du ngoạn khắp trong nước, cho phép Huyền Quang lên toà giảng kinh để thu nạp đệ từ. Nhà vua xuống sắc yêu cầu Huyển Quang soạn các sách giảng kinh, sách giáo khoa Phật, cho in nhiều bản khắc, truyền bá trong dân. Vua khen: "Các sách vở nói về đạo Phật do chính Huyền Quang viết ra thì không nên thêm bớt một chữ nào".

Với tinh thần độc lập dân tộc, vua Trần Nhân Tông đã cùng với các đệ tử sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Tiếp đó là Pháp Loa và Huyền Quang ba vị tăng này được suy tôn là Trúc Lâm Tam tổ và được nhiều chùa theo phái thiền ở Việt Nam thờ. Chùa Đông Cao thờ đạo Phật theo phái Thiền tông cho nên thờ Huyền Quang. Ngày 22 tháng Giêng năm 1334 Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn. Vua Trần Minh Tôn cho 10 lạng vàng xây tháp ở phía tả sau chùa Côn Sơn đặc phong Tự tháp Huyền Quang tôn giả.

- Hệ thống tượng Phật chùa Đông Cao: Thực sự là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, phần lớn tượng Phật được kiến tạo vào thời Lê và thời Nguyễn. Trong đó có 2 pho tượng bằng đồng. Trước đây cảnh chùa rộng lớn, tượng Phật và đồ thờ nhiều. Sau do nhiểu biến động của lịch sử, ngày nay chùa còn 30 pho tượng. Trong số 30 pho tượng thì có 2 pho Hộ Pháp là điển hình, 2 pho tượng này được kiến tạo vào thời Lê, mặc dù đã hơn 300 năm màu sắc và hình dáng vẫn giữ gần như mới. Đó là tượng Quan Văn (Ông Thiện) và Quan Võ (Ông Ác).

+ Tượng Quan Văn (Ông Thiện) đứng ở vị trí bên trái bàn thờ chính toà Tiền đường, tượng cao 2m2, ngang 80cm, rộng 50cm ở tư thế đứng thẳng trên hình tượng một đầu sen và hoa lá, văn mây với hình thức chạm khắc kênh bong, nét chạm mềm, sắc trông như thật. Đầu đội mũ có đính hạt ngọc ở trước và 2 tua cong xuống vai, mắt nhìn xuống, mở to hiền từ nhân hậu, tay trái cầm viên ngọc, tay phải để nhẹ ngang sườn. Mặc áo quan triều có trang trí hoa lá và văn kẻ, thắt đai to, trơn, ở dưới đai là riềm trang trí hoa cúc và chữ thọ, chân đi hài cong có chạm hoa văn, các dây tua và tà áo bay ra phía sau như đang đứng trước gió thổi.

+ Tượng Quan Võ (Ông Ác) đứng ở bên phải bàn thờ chính toà tiền đường có kích thước như tượng Quan Văn nhưng tư thế đứng chếch 45°, tuy chếch nhưng rất vững chắc, khoẻ mạnh. Đầu đội mũ có đính hạt ngọc ở giữa, mắt mở to sáng, râu dài, khuôn mặt dữ, môi mím. Tay phải cầm đốc kiếm, tay trái chống ngang sườn. Mặc áo quan triều có trang trí chữ Thọ và hoa lá, thắt đai to, trễ có trang trí hoa cúc, chân đi hài đứng trên một mảnh vân mây được chạm khắc kênh bong tinh xảo, mềm mại. Tượng được sơn son thiếp vàng.

Khuôn mặt 2 vị Hộ Pháp tuy biểu hiện khác nhau nhưng đều có hồn, nếu như thoạt nhìn vào ta thấy như 2 vị đó đang nhìn mình và định nói điều gì, rất uy nghiêm. Đây là hai pho tượng đạt trình độ nghệ thuật cao, có niên đại trên 300 năm và rất ít chùa ở Hải Dương còn giữ được. Các pho tượng ở toà Thượng điện đều có kích thước trung bình và được ngồi các tư thế khác nhau. Đó là các pho: Quan Thế Chí, A Nan Đà Ma Ha Liệp, Thị Kính, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Văn Thù, Phổ Hiền, Bồ Tát, Đức Ông, A Di Đà, Thiên Lôi, Quỷ Sứ, Thích Ca Mầu Ni (Cửu Long) ... đều được kiến tạo vào thời Lê, có hồn, nét chạm tinh xảo. Tượng sơn son thiếp vàng, màu sắc bền và đẹp, đặc biệt pho tượng Cửu Long bằng đồng có Thích Ca hài nhi đứng chỉ tay màu sắc lung linh huyền ảo, rất đáng tiếc những pho tượng nhỏ đính trên Toà Cửu Long đã bị mất và gần đây 3 pho Tam Thân Tam Thế ngồi trên đài sen cũng mất.

- Nhà tổ chùa còn 6 pho tượng các vị sư tổ được tạc vào thời Lê và thời Nguyễn màu sắc gần như mới. Nhìn chung hệ thống tượng Phật chùa Đông Cao phong phú, thật là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu chứng minh tài nghệ và lòng ngưỡng mộ đạo Phật của người dân nơi đây.

Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng, chùa Đông Cao còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của địa phương, chứng kiến sự đổi thay của quê hương.

Sau Cách mạng tháng 8/1945 cơ quan Phủ uỷ Ninh Giang và Tỉnh uỷ Hải Dương đã dùng chùa làm nơi hội họp chỉ đạo phong trào của tỉnh và của huyện. Thời kỳ kháng chiến chông Thực dân Pháp, trạm y tế quân đội 205 đã sừ dụng chùa làm cơ sở y tế khám, chữa bệnh cho bộ đội. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước: Trường Đảng của huyện Ninh Giang sơ tán về chùa. Tại đây đã có nhiều lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho các đồng chí đảng viên huyện, xã...

         Ngày nay chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Thôn Đông Cao thành lập 1 chi hội Phật giáo, chủ yếu là các cụ bà từ 55 tuổi trở lên. Ngày rằm, mồng một hàng tháng dâng hương lễ Phật duy trì sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, được đông đảo mọi người ủng hộ và tham gia.

         - Lễ hội truyển thống của chùa được tổ chức vào ngày 15/3 (âm lịch). Trước cách mạng tháng 8/1945 cùng với lễ hội, đình và miếu, lễ hội chùa diễn ra sôi nổi, cầu kỳ, có rước kiệu Thành hoàng từ miếu, đình ra chùa sau đó lại rước về và tế lễ. Lễ vật dâng Phật chỉ là hương hoa, trầu cau và hoa quả, nhưng với tấm lòng thành kính dâng lên Đức Phật, sau đó có tổ chức một số trò vui dân gian như hát Ả Đào, hát chèo...

         Từ ngày kháng chiến chống Pháp lễ hội bị bỏ, đến những năm gần đây chùa khôi phục lễ hội. Nhưng chỉ có đội tế nam, chỉ có rước kiệu vì đình và miếu đã bị phá, ngai thờ và một số đồ tế tự của đình và miếu được nhân dân rước về thờ tại nhà tổ của chùa. Thần tích, sắc phong đã bị thất lạc nhân dân chỉ nhớ tên Thành hoàng là Phạm Hoá - một viên tướng giỏi thời Lê - Mạc. Từ xưa đến nay ở đây có tục kiêng tên huý Thành hoàng. Hoá đều gọi chệch đi là Huế. Ví dụ: Cây tre hoá gọi là cầy tre huế...

      Vốn là mảnh đất có tuyển thống lịch sử và văn hoá. Tuy là một xã thuần nông nhưng với ý thức giữ gìn và bảo vệ di sản văn hoá dân tộc, nhân dân nơi đây đã không tiếc công sức và tiền bạc để tu bổ, sửa chữa ngôi chùa cổ kính quyết tâm gìn giữ cồng trình ông cha để lại lưu truyền cho con cháu mai sau.

IV. KHẢO TẢ DI TÍCH:

                           Chùa Đông Cao được khởi dựng từ thời Lý, việc khai quật ở đây chưa được làm. Nhưng căn cứ ngói mũi hài còn lợp trên mái và 1 bệ đá hoa sen hình lục giác, 2 tầng, tầng trên là hoa sen, tầng dưới chạm rồng có mào lửa, thân nhiều khúc uốn gần như gấp khúc, có thể xác định di vật này được sáng tạo vào thế kỷ 15. Căn cứ vào bia ký còn lưu tại chùa được biết như sau:

  •  Bia dựng năm Vĩnh Tộ thứ 3 (1621) nói về việc dựng thiêu hương và đúc chuông.
  • Bia dựng năm Chính Hoà thứ 19 (1698) nói vể trùng tu Thiêu hương.

               - Bia nói về trùng tu nội tự (không rõ niên hiệu) nhưng phong cách chạm khắc thời Lê.

               - Như vậy chùa Đông Cao được trùng tu lớn vào thời Lê. Những lần trùng tu hầu hết do dân đóng góp, đặc biệt ở đây có sự đóng góp của vua chúa nhà Mạc như: Phú Lương công chúa Phạm Thị Ngọc Đạm thời Mạc, Đông Thượng công chúa Mạc Thị Ngọc Toàn... Cuối tấm bia khắc năm 1621 còn có 1 bài minh ca ngợi cảnh chùa như sau:

                                               Sùng Ân danh tự
                                               Cổ tích nhân cơ
                                               Triển hưng công tạo
                                               Tự điện luân khang
                                               Lâu dài nguyệt chiếu
                                               Hoa thảo nhật hy
                                               Hồng chung thanh hưởng
                                               Kim tướng duy kỳ
                                               Linh chung tú khí
                                               Xuân Thắng tính thời
                                               Công hầu còn xuất
                                               Gia quốc chu thi
                                               Hoá tài lai cáo
                                               Phúc lộc tổng tuy
                                               Nam nữ lão thiếu
                                              Viên tuế hạc quy
                                              Viễn truyền công đức
                                              Minh khánh thạch bi

                       Tạm dịch:

                                            Sùng Ân nổi tiếng
                                            Dấu cũ nền nhân
                                            Hưng công tôn tạo
                                            Chùa điện khang trang
                                            Lâu đài nguyệt chiếu
                                           Hoa cỏ tốt tươi
                                           Chuông to tiếng vọng
                                           Tượng vàng uy nghi
                                           Đất thiêng khí tốt
                                           Hơn cả mùa xuân
                                           Công hầu xuất chúng
                                           Quốc gia vẹn toàn
                                          Tiền tài tự  đến
                                          Phúc lộc dồi dào
                                          Nam, nữ, già, trẻ
                                          Năm tháng bền lâu
                                          Mãi truyền công đức
                                          Minh khắc vào bia

    - Ở nhà các (Thiêu hương) còn đôi câu đối như sau:

                                         Lý sáng, Lê hưng, thiên cổ đại
                                        Trần tu, Nguyễn Thịnh, ức niên lưu

                         Nghĩa là:

                                     Chùa được sáng tạo vào thời Lý, thời Lê tôn tạo, ngàn năm còn đó
                                       Thời Trần tu sửa, thời Nguyễn hưng thịnh, lưu vạn mai sau.
           Với những tư liệu trên thì chùa được khởi dựng vào thời Lý, từng tu vào thời Lê, ở thế kỷ 17 chùa đã có quy mô lớn kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc. Phía tây chùa có nhà thiêu hương (nhà các), nhà tổ, nhà tăng, nhà khách và một số công trình phụ thuộc đều được làm bằng gỗ tứ thiết, lợp ngói ta. Khu nội tự đến nay vẫn còn 8000m2. Hiện nay kiến trúc chùa chính kiểu chữ Công (    ), thiêu hương, nhà tổ, Nhà tăng, các công trình phụ thuộc như hành lang, tam quan đã bị giải hạ.
          Trước mặt chùa chính là khu vườn chùa, hiện chuyên trổng cây ngắn ngày. Xung quanh chùa có nhiều cây cổ thụ xum xuê bóng mát như nhãn, vải, mít... Từ xa nhìn vào mái chùa cổ kính thấp thoáng trong vòm cây um tùm tạo phong cảnh thâm nghiêm, tôn kính. Theo nhân dân địa phương cho biết chùa trước đây rộng lớn, riêng biệt. Sau này do dân đến ở gần chùa nên diện tích bị thu hẹp lại. Từ đường làng vào chùa phải qua cổng, cổng này mới xây dựng, đi trên 1 đoạn đường gạch khoảng 100m tới chùa chính, chùa quay hướng Tây.
           Toà tiền đường 5 gian rộng 10 x 17,5m. Mái lợp ngói ta giữa nóc có bảng ghi 3 chữ "Sùng Ân tự" - nghĩa là chùa Sùng Ân. Trước tiền đường có tường bao cao 1m, có tắc môn, phía sau tắc môn là nơi đặt bệ đá hoa sen thời Lê mặt hình lục giác đều, giữa thắt cổ bồng trang trí hoa sen và rồng. Chạm khắc hoa sen và một cây trúc đài đá tròn. Cây trúc đài dựng năm Cảnh Trị (1671) thời Lê có chạm khắc rồng cuốn và hoa văn. Trước cửa đại bái còn 6 con chồn đá thời Lê theo kiểu ngồi chầu. Hiên chùa hẹp, lát gạch chỉ, vỉa đá xanh. Các đầu dư ở hiên chạm lá lật. Cửa bức bàn có ngưỡng vuông cao còn một cửa cũ và cửa mới làm theo kiểu chấn song con tiện. Toà đại bái 5 gian còn 18 cột lim vững chắc, cột to nhất có đường kính 40cm, chân tảng đá thấp. Nển lát gạch Bát Tràng - các vì kiến trúc kiểu thượng tứ, hạ tứ, tiền bẩy, hâu bẩy. Chồng đấu vuông, không chạm khắc cầu kỳ, cốn bưng, xà đinh chạm lá lật đơn giản. Một số đầu đấu chạm cánh sen và chữ thọ. Gian giữa có một bàn thờ để bát hương và một số đổ thờ tự. Bên phải có tượng quan võ sau đó đến bàn thờ 3 vị trong đó có 1 vị mặt đen dữ tợn. Bên trái là tượng Quan Văn và bàn thờ Đức Ông cùng 2 vị cận vệ, tiếp đó là tượng bán thân Bác Hồ được đặt trong long đình sơn son thiếp vàng, chạm khắc tứ linh tứ quý. Bên trên các gian đều treo đại tự nhưng đã cũ, ở cột treo câu đối.
    Toà thượng điện bố trí dọc gồm 5 gian, có xây 5 bậc bệ thờ Phật tính từ trên xuống dưới. Bệ trên cùng còn 3 bục tượng tam thân, tam thế kiểu đài sen nhưng tượng đã bị mất. Bệ thứ hai thờ ba vị là A Di Dà, Đại thế Chí và Quan Thế Chí. Bệ thứ ba thờ Thị Kính tay bồng hài nhi, hai bên là A Nan Đà, Ma Ha Liệp. Bệ thứ 4 là Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu và bệ thứ 5 là Tượng Cửu Long (Thích Ca) và Văn Thù, Phổ Hiền.
             Ở gian trong cùng thượng điện hai bên đều có Phật A Di Đà và tượng các vị sư . Trên 2 cột treo đối câu đối ca ngợi cảnh đẹp và sự trùng tu chùa vào nẳm Vĩnh Tộ.
                   " Động Phật mở mang, bia bảng còn ghi năm Vĩnh Tộ
    Sân giời mát mẻ khói hương nghi ngút cảnh Sùng Ân"
    Chùa còn 3 tấm bia thời Lê. Sau cùng là Động Sơn Trang ở sau Thượng điện động này mới được làm để thờ Sơn trang.
    Ở phía sau bên phải chùa là nhà các và nhà tổ. 2 nhà này dựng song song. Nhà các trước đây dân gọi là Thiêu hương gổm 3 gian chỉ dựng cột và làm mái. Nhà làm kiểu bốn mái có 4 đầu đao guột cong, mái lợp ngói ta, không xây tường, còn 16 cột lim, cột có đường kính 25cm, chân tảng đá thấp. Kiến trúc toà các đậm nét thời Lê, kết cấu chồng rường, thượng tam hạ tứ. Vì kiểu con chồng đấu sen chạm khắc cầu kỳ rồng và hoa lá. Đặc biệt các đầu dư chạm kênh bong đầu rồng râu vây thẳng tắp, gọn gàng. Ở đây còn 1 kẻ góc chạm trúc hoá long, ở đầu kẻ góc này khắc con nghê chầu, có vẩy và lá lật nhọn sắc, phong cách thường thấy ở thời Lý, Trần. Các đầu đao guột khác nhau chạm lá lạt đơn giản. Nền nhà các lát gạch vuông, vỉa đá xanh, có viên đá dài 1m, rộng 30cm. Nhà các có diện tích 6,5m x 9,5rn là công trình kiến trúc gỗ thời Lê còn tương đối vững chắc. Nhà này dùng để tế lễ trong những dịp hội và là nơi dành cho khách hoá vàng hương sau khi vào chùa lễ phật.
    Nhà tổ 5 gian nhỏ, mái lợp ngói ta, kiến trúc vì con chồng đấu sen, chạm khắc đơn giản, còn 8 cột lim nhỏ. Nhà tổ có 3 bệ thờ, gian giữa thờ ngai và một số đồ tế tự của đình và miếu. Ngai thờ vọng Thành hoàng Phạm Hoá. Cỗ ngai sơn son thiếp vàng chạm khắc tứ linh, tứ quý thời Nguyễn, nét chạm tinh tế, cầu kỳ, đẹp mắt. Bệ thờ hai bên là tượng 6 vị sư tổ đã có công xây dựng và tu hành tại chùa khi mất được nhân dân tạc tượng, dựng tháp thờ.
    Qua kiến trúc nghệ thuật chùa Đông Cao cho ta thấy chùa được khởi dựng từ thời Lý, trùng tu nhiều lần vào thời Lê và Nguyễn. Nhưng kiến trúc còn đậm nét thời Hậu Lê, có một số chi tiết chạm khắc tinh xảo, cầu kỳ xứng đáng là tiêu bản quý cần được giữ gìn chu đáo, đặc biệt hệ thống tượng thời Lê phong phú, là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đẹp có ý nghĩa. Chùa còn nhiều cây cổ thụ xum xuê tạo phong cảnh mát mẻ, LI tịch, nên thơ. Một làng quê bình dị với mái chùa cổ kính, thâm nghiêm luôn là hình ảnh đẹp, gần gũi thân thương với con người.
  1. - PHÂN LOẠI DI TÍCH:

Qua nghiên cứu, khảo sát di tích trên các lĩnh vực tư liệu lịch sử, truyền thuyết và thực tế, có thể kết luận đây là Di tích kiến trúc nghệ thuật Một công trình kiến trúc gỗ thời Lê còn tương đối hoàn chỉnh, hệ thống tượng Phật đẹp, phong phú, có lịch sử rõ ràng. Có một số chi tiết chạm khấc đặc biệt quý, hiếm.

   - CÁC HIỆN VẬT TRONG DI TÍCH:

Nhân dân địa phương cho biết trước đây chùa có quy mô lớn, nhiều tượng Phật và đổ tế tự quý như Long đình, bát cống, quần áo tế lễ, cờ, quạt, tàn, lọng... Nhưng trải qua những năm tháng chiến tranh đã bị mất mát, hiện nay còn như sau:

  • Đồ đá:
  • Đồ gỗ:
  • Đồ đồng:
  • Đồ sứ:
  • Những hiện vật kể trên phần lớn là hiện vật thời Lê, còn lại của thời Nguyễn.

Nhiểu hiện vật có giá trị cao vể lịch sử và nghệ thuật như bệ đá hoa sen thời Lê, bia thời Lê, tượng Phật thời Lê, chồn đá thời Lê, bát hương thời Nguyễn v.v... Đó là những cổ vật quý giá có liên quan đến sự trường tồn của di tích rất cần được gìn giữ chu đáo, lâu dài.

        VII - GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ KHOA HỌC:

            Chùa Đông Cao có giá trị lịch sử sâu sắc thông qua việc thờ Phật, một tôn giáo được hầu hết nhân dân Việt Nam tôn thờ. Là một trong sô' ít ngôi chùa còn giữ được kiến trúc nghệ thuật thời Lê còn tương dối vững chắc, có một sô' mảng chạm khắc đẹp, độc đáo.

Hệ thống tượng phật phong phú, đạt trình độ là những tấc phấm nghệ thuật tiêu biểu. Thực sự thu hút các đối tượng tham quan học tập. Mặc dù chiến tranh và thiên tai tàn phá nhưng ngôi chùa vẫn còn, đó là tài sản vô giá để lưu truyền mãi mãi.

         VIII - TÌNH TRẠNG BẢO QUẢN DI TÍCH:                            

Chùa còn giữ được kiến trúc gỗ thời Lê tương đối đẹp và đồng bộ nhưng cũng rất đáng tiếc nếu không được quan tâm tu sửa thì chùa sẽ bi xuống cấp bởi hiện nay một số cột, hoành, rui cổ hiện tượng mọt, một số màng chạm khác cũng mọt, cũ kỹ, sân chùa hẹp, chưa có quy hoạch tổng thể, tường bao xây nhỏ đã chia cắt chùa và sân trước mặt. Đường đi lối lại trong chùa còn rất gồ ghề. Một số cánh cửa lách cũ không đảm bảo cho việc bảo quản cổ vật trong chùa, đồ tế tự ít và cũng đã hỏng.

Ngôi chùa từ ngày khởi dựng đến nay đã qua nhiểu lẩn trùng tu, tôn tạo, di chuyển nhà các. Được sửa lớn vào thời Hâu Lê, và gần đây vào nảm 1974 được sự quan tâm của Nhà nước, chùa được tu sửa lớn như đảo ngói toàn bộ chùa, làm cánh cửa, thay một số cột, xà, hoành, lát nển... Năm 1998 sửa nhà tổ, nhà các, thay rui mè và xây tường. Đây là sự cố gắng rất lớn của nhân dân địa phương. Sau khi di tích được xếp hạng, UBND xã thành lập Ban quản lý di tích do d/c Trưởng ban Vãn hoá xã phụ trách và 3 thành viên của thôn tiực tiếp trông nom, bảo vê duy trì hoạt đông của di tích. Ngoài ra thỗn có 1 chi hội phật giáo tham gia công viêc của chùa. Ban quàn lý và chi hội Phật giáo rất tích cực trong việc bảo vệ và tổ chức tuyên truyền. Nếu được Nhà nước quan tâm hơn nữa thì di tích sẽ được trường tổn cùng với sự đổi mới của quê hương Đông Cao.

           IX – CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ BẢO VỆ DI TÍCH:

Sau CM tháng 8 năm 1945 thành công, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh về việc "Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi việt Nam" ngày 23/11/1945. Sắc lệnh nêu rõ: "Cấm phá huỷ bia ký, đồ vật, văn bằng, chiếu sắc, giấy má, sách vở có tính chất tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử".

Năm 1984, Nhà nước ban hành Pháp lệnh về việc bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh.

Thực hiện Pháp lệnh trên, năm 1967 - 1968  Bảo tàng tỉnh đã kiểm kê di tích toàn tỉnh để đưa vào danh mục bảo quản chùa Đông Cao. Đến năm 1974 chùa Sùng Ân được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Năm 1994 Bảo tàng tỉnh đã tiến hành kiểm kê đợt 2. Năm 2001 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X đã ban hành luật di sản văn hoá đó là cơ sở pháp lý cao nhất để bảo vệ di tích.